Trong Chiến tranh Pháp - Thanh Phùng_Tử_Tài

Trấn Nam quan

Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Thanh, Phùng Tử Tài một lần nữa được cử sang Việt Nam làm tư lệnh quân Thanh ở mặt trận này.

Ông một lần nữa đã chỉ huy quân Mãn Thanh phối hợp với quân triều đình của nhà Nguyễn và quân Cờ Đen làm nên những chiến thắng vang dội tại đây mà điển hình trận đánh Trấn Nam Quan (镇南关战役) nổi tiếng vào ngày 23 tháng 3 năm 1885.

Trong trận đánh này, mũi tấn công của quân Pháp đã bị lực lượng Trung Quốc của tướng Phùng Tử Tài đánh bại, một sự kiện lịch sử rất được những người yêu nước Trung Hoa ca tụng.

Bối cảnh trước trận đánh

Khi Tôn Thất Thuyết sang Quảng Tây, ông dâng sớ nhờ quan Tuần phủ Quảng Tây đạt lên triều đình nhà Thanh để xuất binh giúp Đại Nam.

Lực lượng quân Thanh dưới quyền của Phùng Tử Tài

Vua Quang Tự nhà Thanh quan tâm đến việc nước Đại Nam và tỏ ý giúp đỡ và cũng nhân đó mở mặt trận chiến tranh về phía Đại Nam. Vua Thanh bèn ra dụ phong ông Phùng Tử Tài lúc đó đang là Tuần phủ Quảng Tây làm "Chinh di Đại tướng quân", đô đốc quân sự Lưỡng Quảng, Vân Nam, Quý Châu binh mã kéo sang Đại Nam.

Đạo quân của Phùng Tử Tài ước tính có khoảng 100.000 người, có thanh thế lớn và được trang bị khí giới tinh nhuệ. Ông ta đánh nhiều trận thắng lợi ở Nam Quan, Đồng Đăng, Lạng Sơn, chưa được một tháng mà ông đã tiến gần tới Bắc Ninh. Quân Pháp buộc phải có phương án đối phó để tái chiếm và bình định lại các vùng bị mất.

Diễn biến trận đánh

Bài chi tiết: Pháp đánh Lạng Sơn

Sau hai tháng ráo riết chuẩn bị, quân Pháp tiến quân đánh chiếm Lạng Sơn (23 tháng 2 năm 1885). Quân Thanh tuy đã thua phải bỏ thành Lạng Sơn, nhưng Phùng Tử Tài vẫn đóng lại đồn ở Long Châu, bám sát quân Pháp để chờ cơ hội đánh lấy lại Lạng Sơn.[3]

Ngày mồng 6 tháng 2 năm Ất Dậu (1885), quân Thanh chuyển sang đánh Đồng Đăng, Thiếu tướng De Négrier đem quân lên cứu, rồi thừa thế đánh mạnh sang Long Châu. Quân Pháp đánh thọc sâu vào Long Châu, cách biên giới 80 cây số trong nội địa Trung Quốc, cốt để buộc Bắc Kinh phải sớm ký kết điều ước mới.[4]

Quân Thanh do Phùng Tử Tài chỉ huy phản công chiếm ải Nam Quan

Nhưng đêm 21 rạng sáng 22 tháng 3, quân Thanh bất ngờ phản công chiếm lại cửa ải Nam Quan, đuổi quân Pháp đang đóng giữ ở đó phải bỏ chạy về Đồng Đăng. Quân Pháp đánh trong hai ngày, chết hại mất non 200 người. Đến mồng 8, De Négrier rút quân về Lạng Sơn, còn những người bị thương thì đem về đồn Chũ. Quân Pháp đóng ở Lạng Sơn bấy giờ có 35.000 người.[3]

Thanh Sử Cảo quyển 527 chép: "Ngày 9 tháng 1 năm Quang Tự thứ 11 (1885), quân Pháp đánh Trấn Nam quan, bắn vỡ cửa quan rồi đi. Ngày 13 tháng 2 chiếm lại Lạng Sơn, quân Pháp đều tháo chạy. Phùng Tử Tài tiến quân đánh Lạp Mộc, đánh ép vào Lang Giáp, Vương Hiếu Kỳ tiến quân tới Quý Môn quan, lấy lại được hết vùng biên giới năm trước. Dân Việt Nam lập ra năm đại đoàn Trung nghĩa hơn hai vạn người, đều dùng cờ xí của quân Phùng. Tây Cống cũng nghe tiếng liên lạc, từ khi thông hải đến nay, Trung Quốc đánh nhau với nước ngoài chỉ có trận này là thắng lớn, là công của Tử Tài vậy".

Sau đó, 6.000 quân Pháp do tướng De Négrier chỉ huy đã phản công mạnh mẽ, vượt qua cửa ải trên, liên tục đánh phá các đồn quân Thanh trên con đường Nam Quan - Bằng Tường. Nhưng rồi quân Pháp lại bị đánh bật trở lại, phải rút về phía bên này biên giới, rồi hỗn loạn tháo chạy về Lạng Sơn ngày 26 tháng 3, bỏ lại trên chiến trường nhiều xác lính chết (trong đó có năm viên chỉ huy), lính bị thương và quân trang, quân dụng.

Thanh Sử cảo, quyển 527 chép: "Quân Pháp 6.000 người xâm phạm phủ Lâm Thao rồi chia làm hai cánh, một đánh lên Kha Lĩnh, An Bình phía bắc, một đánh xuống Miến Vượng, Mãnh La phía nam. Tổng đốc Vân Nam Sầm Dục Anh sai bọn Sầm Dục Bảo, Lý Ứng Trân chặn cánh phía bắc, Vương Văn Sơn chặn cánh phía nam, đích thân đốc suất trung quân tiến đánh, đều thu toàn thắng. Quân Pháp bèn rút về họp quân ở phủ Lâm Thao, quân Vân Nam chặn đánh ở hai phía nam bắc vòng lại giáp công, chém năm viên tướng Pháp trên trận, quân Pháp tan vỡ".

Tại Lạng Sơn, quân Pháp chưa kịp chấn chỉnh lại đội ngũ, thì ngày 28 tháng 3 quân Thanh lại tràn sang tiến đánh Kỳ Lừa, sát thành Lạng Sơn. Trận đánh diễn ra rất ác liệt, Đại tá Herbinger chỉ huy thay tướng De Négrier vừa bị trọng thương, liệu thế không giữ được Lạng Sơn vì quân Thanh đông và tấn công rất quyết liệt nên phải ra lệnh bỏ thành Lạng Sơn, rút chạy về Phủ Lạng Thương ngay trong đêm đó.

Dọc đường chạy tháo thân, quân Pháp đã vứt cả súng đại bác, hòm đạn, quẳng cả đồ đạc, hành lý xuống sông, đốt giấy tờ sổ sách, đập vỡ cả máy điện tín. Mãi đến ngày 01 tháng 4, quân Pháp mới về đến Chũ.[3][4]

Kết quả trận đánh

Trận đánh này kết thúc với sự thắng lợi vang dội của quân Thanh dưới sự chỉ huy tài tình của Phùng Tử Tài cùng với sự phối hợp tốt của dân quân Việt Nam. Sử nhà Thanh đã nhận định: "Từ khi thông hải đến nay, Trung Quốc đánh nhau với nước ngoài chỉ có trận này là thắng lớn, là công của Tử Tài vậy".

Trận đánh này quân Pháp tổn thất ít nhất hơn 200 binh lính, chết 5 chỉ huy, bản thân tổng chỉ huy là tướng De Négrier cũng bị thương nặng, thiệt hại nhiều đồ đạc, quân trang, quân dụng, máy điện tín… Và quan trọng hơn là thành Lạng Sơn đã mất khỏi sự kiểm soát của quân Pháp.

Phía Pháp ở chính quốc tiếp được điện tín của Trung tướng Brière de I’ Isle đánh về nói quân Pháp phải bỏ thành Lạng Sơn, thì lòng người náo động cả lên. Thủ tướng Jules Ferry phải từ chức. Chính phủ Pháp thấy sự chiến tranh không lợi bèn ký tờ giao ước định chiến với nước Tàu.[3]

Rút khỏi Việt Nam

Ngày 11 tháng 5 năm 1884, Hiệp ước Thiên Tân được ký kết, quân nhà Thanh lần lượt rút khỏi Bắc Kỳ, nhưng quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc vẫn ở lại Việt Nam. Pháp yêu cầu đuổi Lưu Vĩnh Phúc khỏi Việt Nam.

Người Pháp đòi đuổi Lưu Vĩnh Phúc ra khỏi Việt Nam, Tổng đốc Trương Chi Động bèn sai Vĩnh Phúc về Ân Châu, Khâm Châu nhưng Vĩnh Phúc kiên quyết không chịu, Đường Cảnh Tung dùng lời lẽ xảo trá uy hiếp, triều đình ban dụ chỉ nghiêm khắc bắt phải tuân lệnh, Vĩnh Phúc mới miễn cưỡng về Quảng Đông, được trao chức Tổng binh.

Phùng Tử Tài thì được lệnh đốc suất việc biên phòng ở Liêm Châu, Khâm Châu, ông vâng lệnh cai quản việc biên phòng châu Liêm, châu Khâm.[3][5]